Nhân Dân Miền Nam Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước

Nhân Dân Miền Nam Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước

Để đáp ứng nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới mà Trung ương Đảng xác định đó là “trụ cột bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình”, quân đội ta nhanh chóng bước vào xây dựng theo kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ nhất (1955-1960). Nhiệm vụ và phương châm lúc này là: Tích cực xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy, hiện đại.

Để đáp ứng nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới mà Trung ương Đảng xác định đó là “trụ cột bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình”, quân đội ta nhanh chóng bước vào xây dựng theo kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ nhất (1955-1960). Nhiệm vụ và phương châm lúc này là: Tích cực xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy, hiện đại.

CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ VIỆC KẾT THÚC CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM

Giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ là cuộc chạy đua nước rút quyết liệt nhất, cuộc đấu trí, đấu lực gay gắt nhất giữa nhân dân Việt Nam và thực dân Pháp xâm lược trên con đường đi tới bàn đàm phán hòa bình ở Giơnevơ (Genève) để kết thúc chiến tranh. Chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ là hai sự kiện kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam, góp sức cùng nhân loại làm cho thế kỷ XX trở thành Thế kỷ giải trừ chủ nghĩa thực dân (décolonisation).

1. Thắng lợi quân sự và thiện chí của chính phủ và nhân dân Việt Nam mở hướng đi tới một cuộc đàm phán hoà bình. Từ khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, với quan điểm nhân đạo và hoà bình, Chính phủ Việt Nam chủ trương giải quyết xung đột thông qua thương lượng. Đây là lập trường nhất quán của Chính phủ và nhân dân Việt Nam ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Vì thế Chính phủ Việt Nam đã chủ động đàm phán và nhân nhượng cho thực dân Pháp nhiều quyền lợi, thể hiện qua Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 và Tạm ước ngày 14 tháng 9 (1946). Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Khi chiến tranh đã bùng nổ, Chính phủ Việt Nam vẫn nỗ lực vãn hồi hoà bình, Chủ tịch Chính phủ nhiều lần gửi thư đến Quốc hội, Chính phủ và nhân dân Pháp đề nghị ngưng chiến để đàm phán, nhưng khi đó thực dân Pháp đang nuôi hy vọng giành thắng lợi bằng quân sự. Những nỗ lực ngoại giao của Việt Nam không được đáp ứng. Dân tộc Việt Nam hiểu rằng chỉ có thể giành độc lập tự do khi nào làm thất bại được những âm mưu quân sự của bọn xâm lược Pháp. Thắng lợi quân sự là cơ sở thực lực cho đấu tranh ngoại giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Thực lực như cái chiêng, ngoại giao như cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn". Sẽ không thể giành được thắng lợi trên bàn đàm phán nếu không có thắng lợi trên chiến trường. Đàm phán và nhân nhượng không phải là sự nhu nhược. Một khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến tranh. "Đã phải đánh thì kiên quyết đánh"[1], dân tộc Việt Nam vùng dậy kháng chiến vì độc lập tự do với tinh thần "Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ"[2]. Với niềm tin "Địch chiếm trời, địch chiếm đất, nhưng chúng không làm sao chiếm được lòng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta"[3], dựa vào tinh thần hăng hái của toàn dân để giải quyết những thiếu thốn về vật chất, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh kiên quyết phát động cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện với phương châm chiến lược đánh lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã từng bước giành thắng lợi, nhất là từ Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950, với thế tiến công chiến lược ngày càng phát triển, lực lượng vũ trang ba thứ quân trưởng thành, hậu phương kháng chiến đuợc xây dựng và củng cố vững mạnh. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam được sự giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, phối hợp với Đảng Cộng sản Pháp, kết hợp với phong trào bảo vệ hoà bình thế giới và phong trào phản chiến ở Pháp. So sánh lực lượng trên chiến trường thì tình hình ngày càng có lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, là lợi thế của Việt Nam trên bàn đàm phán. A. Patti (Archimedes L. A. Patti), nguyên sĩ quan tình báo Mỹ, nhận xét: "Ngày 13 tháng ba, Quân đội nhân dân Việt Nam dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tướng Giáp khởi đầu cuộc tiến công vào Điện Biên Phủ. Cái pháo đài mới được tăng cường này đã có tầm quan trọng về chính trị và tâm lý hơn hẳn giá trị chiến lược thực tế của nó vì Hội nghị Giơnevơ sắp khai mạc. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thấy được một cách đúng đắn đây là một trận đánh có tính chất quyết định, không phải chỉ nhằm giành được một chiến thắng vang dội mà sẽ làm cho họ mạnh hẳn lên, họ đã chuẩn bị bao vây cứ điểm này Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng còn nhằm đánh cho quân đội Liên hiệp Pháp một đòn chí tử để gây tác động tâm lý đối với nước Pháp, làm nhân dân Pháp và những người chống cộng Việt Nam mất ý chí tiếp tục cuộc đấu tranh"[4]. Chủ trương của Đảng Cộng sản và Chính phủ Việt Nam trước sau như một là nỗ lực vãn hồi hoà bình, chủ trương giành thắng lợi về quân sự kết hợp với giải pháp ngoại giao để kết thúc cuộc kháng chiến. Ngày 26-11-1953, trong bài trả lời điện phỏng vấn của chủ bút báo Tin nhanh (Expressen) của Thuỵ Điển, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ nguyên nhân và tình hình cuộc chiến tranh ở Việt Nam, tuyên bố lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: "... nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tiếp ý muốn đó". "Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam"[5]. Ngày 27-12-1953 ,Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra thông tri về lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhà báo Thuỵ Điển, nêu rõ: "Trong lịch sử, có nhiều cuộc chiến tranh do thương lượng hoà bình mà đi đến đình chiến". "Nhân dân ta chiến đấu chống bọn xâm lược là vì độc lập dân tộc, mà cũng vì hoà bình thế giới. Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kẻ thù của dân tộc ta, đồng thời cũng là kẻ thù của nhân dân thế giới". "Ngọn cờ hòa bình phải do tay ta nắm lấy và giương cao lên"[6]. Đảng Lao động Việt Nam chủ trương trong đàm phán hoà bình cần có sự nhân nhượng lẫn nhau: "Muốn đàm phán có kết quả thì ta phải nhân nhượng, nhưng nhân nhượng có chừng mực, trong nguyên tắc, và đối phương cũng phải nhân nhượng với ta". "Phải tránh tả khuynh, đặt yêu cầu quá cao cho cuộc đấu tranh ngoại giao, làm cho các cuộc đàm phán bị bế tắc. Nhưng cũng phải chống hữu khuynh, nhượng bộ cho địch quá mức, làm cho nhân dân chán nản và kẻ địch được đằng chân lân đằng đầu. Nguyên tắc căn bản về đấu tranh ngoại giao của ta là: 1- Kết hợp nguyên tắc tính rất cao với linh động tính đúng mức. 2- Yêu cầu của ta chủ yếu là căn cứ vào lực lượng so sánh giữa ta và địch mà định. 3- Đặt vấn đề Đông Dương vào trong vấn đề bảo vệ hoà bình và dân chủ thế giới đặng giải quyết một cách thích đáng". Thiện chí hoà bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam mở hướng đi tới một cuộc đàm phán để kết thúc chiến tranh. 2. Thực dân Pháp thất bại cả về quân sự và chính trị, cần tới bàn đàm phán để kết thúc chiến tranh. Những năm 1946-1947, qua những lần tiếp xúc Việt - Pháp: Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt (4-1946), Hội nghị chính thức ở Phôngtennơblô (Fontainebleau) từ tháng 7-1946, Tạm ước ngày 14-9-1946, cuộc gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh và Hoàng Minh Giám với Paul Mus tại Việt Bắc (5-1947), phía Pháp ngoan cố bám giữ lập trường thực dân cũ, không chịu công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nước Việt Nam. Họ nuôi hy vọng giành thắng lợi bằng một cuộc chiến tranh thuộc địa, thậm chí chỉ bằng một cuộc hành quân chớp nhoáng. Việc đàm phán đối với họ chỉ là thủ đoạn để lấn dần từng bước và có thời gian chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn. Đối với thế lực phản động và hiếu chiến Pháp, Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 chẳng qua chỉ là một "hiệp định đổ bộ" (Accord de débarquement), cốt đạt được sự thoả thuận cho Pháp đưa quân ra miền Bắc Việt Nam. Sau tám năm, cuộc chiến tranh thuộc địa của Pháp ở Đông Dương ngày càng đi sâu vào "đường hầm không lối thoát". Kể từ Chiến dịch Thu Đông 1950 quân đội Pháp đã mất thế chủ động tiến công chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, ngày càng sa lầy trong một cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn, bị đánh ở cả phía trước mặt và phía sau lưng. Ngay ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi quân Pháp có hệ thống chiếm đóng mạnh để vơ vét sức người sức của phục vụ chiến tranh xâm lược, cũng có tới hai sư đoàn chủ lực của Việt Minh thường xuyên hoạt động - một điều rất đặc biệt so với những cuộc chiến tranh ở Trung Quốc và Liên Xô. Các tướng Pháp không sao giải quyết được mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán binh lực để vừa đạt mục đích quân sự (tiến công tiêu diệt chủ lực của đối phương) và mục đích của chiến tranh thuộc địa (cướp đất, giữ dân để khai thác về kinh tế). Càng kéo dài chiến tranh, thực dân Pháp càng bị tổn thất nặng nề. Nó trở thành một gánh nặng về tâm lý và kinh tế cho người Pháp; buộc Pháp phải nhận viện trợ của Mỹ và lệ thuộc vào Mỹ; bị dư luận nước Pháp và quốc tế lên án mạnh mẽ. Phong trào phản đối cuộc chiến tranh bẩn thỉu (La sale guerre) ở Pháp dâng cao. Nội bộ giới cầm quyền chia rẽ thành hai phái: chủ chiến và chủ hoà, đấu tranh gay gắt với nhau trong chính phủ và quốc hội, làm cho nội tình nước Pháp không ổn định. Sau tám năm tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, nước Pháp phải thay đổi chính phủ tới 18 lần. Trước khi thua trên chiến trường, bọn thực dân phản động Pháp đã thua ngay tại nước Pháp. Chính phủ Lanien (Laniel) lên cầm quyền (28-6-1953) bắt đầu nghĩ đến một giải pháp chính trị thông qua thương lượng. Trong khi đó, chính sách kiên định của Mỹ là lái cho Pháp tránh xa khỏi bàn hội nghị trong khi chưa giành được những thắng lợi quan trọng trên chiến trường. Đalét (Dulles) nhiều lần nói với Biđôn (Bidault) rằng Mỹ thấy kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương trong điều kiện thuận lợi cho cộng sản là một điều không nên. Ông ta muốn người Pháp tiếp tục cuộc chiến vì Đông Dương là một mắt xích chủ yếu trong phòng tuyến ngăn chặn cộng sản trong khu vực. Pháp và Mỹ muốn thương lương trên thế mạnh đã dẫn tới việc Đại tướng H. Navarre được cử sang làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Kế hoạch quân sự Nava (H. Navarre) ra đời và được thông qua. Trong Chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, kế hoạch đó không thể thực hiện được theo dự kiến, mà bị đảo lộn hoàn toàn do những cuộc tiến công chủ động và kiên quyết của chủ lực Việt Minh trên những hướng chiến lược quan trọng mà quân Pháp không thể bỏ. Navarre muốn tập trung nhưng lại phải phân tán binh lực; muốn giành quyền chủ động nhưng lại càng bị động đối phó lúng túng; muốn tiến công nhưng phải kéo quân đỡ đòn xuôi ngược khắp nơi. Theo đánh giá của tướng Êly (élly), bản đồ chiến tranh của Pháp ở Đông Dương tồi tệ hơn nhiều so với dự kiến trước đó. Quân Pháp đã mất ở Điện Biên Phủ "quả đấm tấn công". Trong biển lửa của cuộc chiến tranh nhân dân Việt Nam, khắp nơi quân đội Pháp ở vào tình trạng phân tán chiếm đóng "bất động" (immobilisation), tinh thần sa sút, phải thực hiện một sự bố trí hoàn toàn phòng ngự và cần phải tăng viện ngay. Nhưng khả năng tăng viện của Pháp lúc đó rất hạn chế vì phải gọi quân dự bị. Cơ quan tình báo Mỹ (CIA) cho rằng tình hình quân sự và chính trị của Pháp ở Đông Dương tồi tệ. Nếu đà đó không được ngăn chặn thì nó sẽ đưa đến sự sụp đổ của Pháp vào nửa sau của năm 1954[7]. Thất bại ở Điện Biên Phủ làm tan tành cố gắng lớn nhất và cũng là cố gắng cuối cùng của thực dân Pháp với sự giúp sức của đế quốc Mỹ, làm cho thực dân Pháp không thể hy vọng giành thắng lợi bằng quân sự, phong trào phản chiến ở Pháp phát triển mạnh. Nhiều tướng Pháp cho rằng Pháp không thể thắng, Việt Minh không thể thua. Laniel và Bildault phải từ bỏ chủ trương thương lượng trên thế mạnh. Nội bộ giới cầm quyền Pháp càng thêm chia rẽ, lục đục, đấu tranh gay gắt với nhau. Sau khi Chính phủ Lanien sụp đổ, Chính phủ Măngđét Phơrăngxơ (Mendès France) lên thay (6-1954), chủ trương giải quyết cuộc chiến tranh bằng thương lượng. Măngđét Phơrăngxơ hứa với Quốc hội và nhân dân Pháp là sẽ lập lại hòa bình ở Đông Dương trong vòng một tháng. Thế là so với những năm đầu chiến tranh, ý chí xâm lược của thực dân Pháp đã bị đánh bại, thái độ của giới cầm quyền Pháp buộc phải thay đổi. Họ cần tới bàn đàm phán để kết thúc chiến tranh, tránh để cho Hà Nội có thể trở thành "một Điện Biên Phủ thứ hai", nơi mồ chôn quân viễn chinh Pháp. 3. Tác động của nguyện vọng hoà bình và xu thế hoà hoãn trên thế giới. Hoà bình không chỉ là nguyện vọng của dân tộc Việt Nam mà còn là nguyện vọng chung của nhân loại. Đại hội hoà bình thế giới lần thứ hai họp tại Vacsava ra nghị quyết đòi chấm dứt chiến tranh Triều Tiên và Đông Dương. Từ năm 1950 đến 1953 có chín hội nghị quốc tế bảo vệ hoà bình đều có nghị quyết về Việt Nam. Tháng 10-1953, Đại hội công đoàn thế giới lần thứ ba với sự tham dự của đại biểu 79 nước quyết định lấy ngày 19-12-1953 làm "Ngày đoàn kết với nhân dân Việt Nam anh dũng và đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam". Đảng Lao động Việt Nam ý thức rằng "Hoà bình là nguyện vọng tha thiết của hàng trăm triệu nhân dân thế giới. Hoà bình có thể giữ gìn và củng cố được vì nhân dân thế giới đang đoàn kết, thống nhất, tích cực bảo vệ nó, chống lại bọn đế quốc gây chiến"[8]. Trật tự thế giới hai cực Yanta chi phối quan hệ quốc tế và có ảnh hưởng lớn đến tình hình Việt Nam. Biểu hiện rõ nhất là từ năm 1950, trong khi Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, thì Mỹ, Anh và một số nước khác (Thái Lan và Philippin) công nhận chính quyền Bảo Đại do Pháp dựng lên. Sự can thiệp của Mỹ làm cho chiến tranh ở Đông Dương đạt tới một quy mô mới, được "quốc tế hoá" và trở thành một bộ phận trong cuộc thập tự chinh chống cộng của Mỹ. Vấn đề chiến tranh ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng trở thành một vấn đề quốc tế giữa hai phe, mà theo cách diễn đạt của tướng Pháp Ivơ Gơra (Yves Gras) thì nó "lồng vào cuộc xung đột toàn cầu giữa phương Đông và phương Tây". Và theo Cựu sĩ quan tình báo Mỹ Patti thì "Nó đã được quốc tế hoá và trở thành một bộ phận của cuộc thập tự chinh chống cộng của Mỹ"[9]. Quan hệ quốc tế trên đây có ảnh hưởng đến việc kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương. Khi chiến tranh lạnh lên đến đỉnh cao và có hai cuộc chiến tranh nóng ở châu Á (Đông Dương và Triều Tiên), cũng là lúc xu thế hoà hoãn xuất hiện. Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) chấm dứt bằng một thoả hiệp quân sự (27-7-1953) được ký kết giữa Trung Quốc và Bắc Triều Tiên với Mỹ và Nam Triều Tiên, tiếp tục chia cắt Triều Tiên ở vĩ tuyến 38, giữ nguyên trạng như sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Thực chất đây là một cuộc đọ sức giữa hai phe mà không phân thắng bại, phản ánh so sánh lực lượng đang ở thế cân bằng. Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên có tác động đến hai phái chủ hoà và chủ chiến trong chính quyền Pháp. Những người trong phái chủ hoà tuyên bố cuộc đình chiến ở Triều Tiên phải dẫn đến đàm phán về Đông Dương. Ngày 22-11-1953, đại diện các tổ chức và lực lượng phản đối chiến tranh của Pháp mở hội nghị toàn quốc đòi lập lại hoà bình ở Đông Dương. Liên Xô mong muốn đi đến giải pháp hoà bình cho cuộc chiến tranh ở Đông Dương nhằm ngăn chặn việc Mỹ có thể mở rộng chiến tranh ở đây và thúc đẩy xu thế làm dịu tình hình thế giới. Liên Xô chủ trương triệu tập một hội nghị năm nước lớn (Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp và Trung Quốc) để tìm biện pháp giảm bớt tình hình căng thẳng ở Viễn Đông. Trung Quốc, một trong những nước viện trợ lớn nhất cho cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Nam, cũng chủ trương sớm giải quyết hoà bình cuộc xung đột ở Đông Dương nhằm ngăn chặn Mỹ mở rộng chiến tranh, bảo đảm hoà bình và an ninh cho Trung Quốc và khu vực Viễn Đông. Xã luận Nhân dân nhật báo ngày 3-9-1953 khẳng định: dư luận châu Á và phần còn lại của thế giới đòi hỏi rằng cuộc đình chiến ở Triều Tiên phải đưa đến hoà bình ở toàn châu Á. Đây là lúc Trung Quốc vừa mới ra khỏi cuộc chiến tranh Triều Tiên và đang thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất, cần những điều kiện ổn định để xây dựng kinh tế. Trung Quốc triển khai chính sách cùng tồn tại hoà bình, trước mắt là với các nước châu Á. Tháng 4-1954, Hiệp định giữa Ấn Độ và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa về buôn bán và quan hệ của Tây Tạng với Ấn Độ nêu lên lần đầu tiên năm nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình. Vấn đề cùng tồn tại hoà bình đang trở thành một xu thế lớn và chi phối quan hệ quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định, "mục đích chính của phe ta hiện nay là: làm cho tình hình thế giới bớt căng thẳng; chủ trương giải quyết các cuộc tranh chấp trên thế giới bằng cách thương lượng"[10]. Nước Anh còn nhiều quyền lợi ở Đông Nam Á, không muốn chiến tranh ở khu vực này mở rộng và bị quốc tế hoá, cũng cho rằng đình chiến ở Triều Tiên sẽ dẫn tới việc đàm phán về những vấn đề rộng lớn hơn, trong đó có Đông Dương. Mỹ là nước không muốn dùng giải pháp đàm phán hoà bình với Việt Minh để giải quyết cuộc chiến tranh ở Đông Dương, mà muốn Pháp trao trả "độc lập hoàn toàn" cho Bảo Đại. Sau khi đình chiến ở Triều Tiên, Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương, tăng cường viện trợ cho Pháp nhằm kéo dài và mở rộng chiến tranh, phản đối việc thương lượng. Mỹ sợ "để mất Đông Dương vào tay cộng sản" và làm "nguy kịch cho nền an ninh của Mỹ". Đông Dương được Mỹ đặt trong phòng tuyến chống cộng ở châu Á - Thái Bình Dương. Ngày 13-1-1954, Ngoại trưởng Dulles tuyên bố: "Đứng về chiến lược, quyền lợi của Mỹ ở vùng Viễn Đông gắn chặt với các đảo ở bờ biển vùng đó. Các đảo đó có hai cứ điểm ở trên lục địa: phía bắc là Triều Tiên và phía nam là Đông Dương. Giữa hai cứ điểm đó là các đảo Nhật Bản, Lưu Cầu, Ôkinaoa, Đài Loan, Phi Luật Tân, Úc, Tân Tây Lan…"[11]. Trong hoàn cảnh quốc tế lúc đó, Mỹ chưa có điều kiện đưa quân đến tham chiến trực tiếp ở Đông Dương, mà chủ trương tăng cường viện trợ quân sự cho Pháp nhằm giúp Pháp giành thắng lợi trên chiến trường, buộc đối phương phải chấp nhận một giải pháp có lợi cho Mỹ. Tháng 11-1953, cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 của quân đội và nhân dân Việt Nam bắt đầu bằng cuộc hành quân lên hướng Tây Bắc (11-1953) Ngày 19-11-1953, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam triệu tập Hội nghị cán bộ phổ biến nhiệm vụ quân sự và kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954. Ngày 20-11-1953, Nava phải mở cuộc hành binh Catxtô (Casto), cho quân nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Đầu tháng 12-1953, Nava quyết định tiếp nhận chiến đấu ở Tây Bắc xoay quanh căn cứ lục - không quân Điện Biên Phủ mà phải được bảo vệ bằng bất cứ giá nào. Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam nghe Tổng Quân uỷ báo cáo quyết tâm tiến công Điện Biên Phủ và thông qua kế hoạch tác chiến. Tháng 1-1954, Hội nghị ngoại trưởng bốn nước (Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp) họp ở Berlin bàn về biện pháp làm dịu tình hình căng thẳng trong quan hệ quốc tế, vấn đề nước Đức và nhiệm vụ bảo đảm an ninh của châu Âu và vấn đề thống nhất nước áo. Liên Xô có nhượng bộ: tạm gác các vấn đề Đức, an ninh châu Âu, giải trừ quân bị để tập trung giải quyết cuộc chiến tranh nóng ở châu á. Ngày 18-1-1954, bốn nước này quyết định triệu tập Hội nghị Giơnevơ để giải quyết hoà bình, vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương. Giải quyết hoà bình cuộc chiến tranh Đông Dương trở thành một xu thế không thể đảo ngược. Mục đích của các chính phủ Việt Nam, Pháp và các nước khác có điều dị biệt nhưng có một điểm tương đồng là đến bàn đàm phán hoà bình. 4. Hội nghị Quốc tế Giơnevơ 1954 về Đông Dương và sự kết thúc chiến tranh. Ngày 26-4-1954, Hội nghị Giơnevơ bắt đầu họp về vấn đề Triều Tiên, nhưng không đi đến một giải pháp nào. Thời gian Hội nghị bàn về Triều Tiên là lúc quân đội viễn chinh Pháp ở Điện Biên Phủ đang nguy kịch. Sau khi các cứ điểm Him Lam, Độc Lập bị tiêu diệt, quân Pháp ở Bản Kéo buộc phải ra hàng. Hàng loạt cứ điểm ở khu Đông Mường thanh bị tiêu diệt từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 4-1954. Từ ngày 1 tháng 5 khu trung tâm bắt đầu bị tiến công dồn dập, chiều ngày 7 tháng 5 Bộ chỉ huy quân Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ra hàng. Điều đó càng thu hút sự quan tâm của các nước lớn đến vấn đề đàm phán hoà bình để giải quyết cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Thất trận ở Điện Biên Phủ làm cho hy vọng thương lượng trên thế mạnh của các thế lực đế quốc hiếu chiến tan vỡ. Buổi sáng ngày 8-5-1954, Quốc hội Pháp nghe Thủ tướng Pháp Lanien công bố sự thất thủ của quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ. Buổi chiều cùng ngày, Tổng thống Mỹ Aixenhao (Eisenhower) họp Hội đồng an ninh quốc gia để thông báo về kết cục bi thảm này. Tại Hội nghị Giơnevơ, đoàn đại biểu Pháp mặc trang phục màu đen, Ngoại trưởng Bidault thông báo tin quân Pháp thất trận và đề nghị chấp thuận nguyên tắc của một cuộc tổng ngưng chiến tại Đông Dương nhằm bảo đảm an ninh cần thiết. A. Patti mô tả: "Cuộc hội nghị mở đầu một cách gay cấn trong một bầu không khí ảm đạm, không chắc chắn và đầy nghi ngờ. Khối cộng sản nắm toàn bộ các chủ bài. Tất cả những người tham dự hội nghị đều mang theo những động cơ riêng của mình: Pháp đã mất hết ý chí chiến đấu và mong muốn có một cuộc hoà giải nhanh chóng; Mỹ đã thất bại trong việc cố buộc Pháp vào hoạt động quân sự thống nhất nhằm đấu tranh chống lại sự bành trướng của cộng sản ở Đông Nam Á; Anh mong thiết lập lại hòa bình và làm giảm căng thẳng quốc tế đang tác động tai hại đến quyền lợi Anh trong vùng; Trung Cộng lại muốn nắm lấy thời cơ để đối phó với Mỹ trên một thế bình đẳng trong các vấn đề quốc tế, còn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì mong muốn và hy vọng được công nhận như một thực thể có chủ quyền để được đối xử một cách tương xứng với cái giá họ đáng phải được"[12]. Ngày 8-5-1954, vấn đề chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương được đưa ra thảo luận. Với sự tham gia của chín bên (Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, quốc gia Việt Nam, Lào và Campuchia). Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn bước vào Hôị nghị với tư thế người chiến thắng. Từ ngày 4 đến ngày 27-7-1954 còn có Hội nghị quân sự Việt - Pháp họp ở Trung Giã (Thái Nguyên). Diễn biến của Hội nghị Giơnevơ rất phức tạp với sự đấu tranh quyết liệt của đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và dự dàn xếp của các nước lớn, nhất là xung quanh vấn đề phân vùng đóng quân, vấn đề tổng tuyển cử và thống nhất nước Việt Nam, vấn đề các lực lượng kháng chiến ở Lào và Campuchia... Trong điều kiện lịch sử cụ thể lúc đó, theo xu thế chung giải quyết các cuộc xung đột trên thế giới bằng thương lượng, đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà chấp nhận ký Hiệp định Giơnevơ. Ngày 21-7-1954, các nước tham dự Hội nghị ra một bản tuyên bố cuối cùng và ký các văn bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia, tạo nên khung pháp lý của Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương. Theo Phạm Văn Đồng, "Hiệp định Giơnevơ tóm lại gồm hai điểm quan trọng: một là, quy định giới tuyến quân sự tạm thời; hai là, tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam, hai năm sau ký Hiệp định Giơnevơ, nghĩa là tháng 7-1956. Hai điểm này quan hệ mật thiết với nhau, giới tuyến quân sự chỉ là tạm thời bởi lẽ khi có tổ chức tổng tuyển cử nhằm thống nhất nước Việt Nam thì tất nhiên không còn có giới tuyến này nữa"[13]. Cho đến nay còn có những đánh giá khác nhau về nội dung Hiệp định và thái độ của các nước lớn tham gia Hội nghị Giơnevơ. Tổng thống Aixenhao tuyên bố: "Tôi không có gì phê phán cái đã làm được ở Giơnevơ bởi vì tôi không có một giải pháp thay thế đề nghị", song ông cũng nói: "Hoa Kỳ không bị các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ ràng buộc". Ngoại trưởng Anh Eden cho rằng: "Đó là thoả thuận tốt nhất mà chúng ta đã tự tay làm ra"[14]. Nhưng đối với dân tộc Việt Nam, thì đây chỉ là kết thúc một chặng trên con đường đấu tranh lâu dài và gian khổ để đi tới độc lập tự do. Tại phiên họp cuối cùng của Hội nghị, trong một tuyên bố riêng, Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kêu gọi đồng bào của mình: "Nhân dân Việt Nam! Đồng bào miền Nam! Thắng lợi thuộc về chúng ta! Độc lập và thống nhất Tổ quốc chúng ta là ở trong tay chúng ta. Những người yêu chuộng hoà bình và công lý trên toàn thế giới đều đồng tình với chúng ta. Đồng bào hãy nhớ lấy lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Cuộc đấu tranh phải gian khổ, nhưng cuối cùng chúng ta nhất định thắng"[15]. Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đã kết thúc cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc Việt Nam. Đó là thắng lợi của chiến tranh nhân dân ở một đất nước đất không rộng, người không đông, kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, trình độ khoa học chưa phát triển, chống chiến tranh xâm lược của một đế quốc to, có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn mạnh, trình độ khoa học - kỹ thuật tiên tiến, có quân đội nhà nghề thiện chiến và phương tiện chiến tranh hiện đại. Cơ đồ thực dân cũ của Pháp ở Đông Dương bị xoá bỏ hoàn toàn, thúc đẩy sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới; cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu á, châu Phi, Mỹ Latinh. Việt Nam - Điện Biên Phủ - Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng và niềm tin thắng lợi của các dân tộc nhược tiểu đang vùng dậy đấu tranh cho độc lập tự do. Hoà bình được lập lại ở Việt Nam và trên toàn bán đảo Đông Dương, đáp ứng nguyện vọng hoà bình của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới. Khi ký bản Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946, Pháp mới chỉ công nhận tính thống nhất của nước Việt Nam (Việt Nam là "một quốc gia"), nhưng không công nhận nền độc lập. Hội nghị Giơnevơ, một hội nghị quốc tế với sự tham gia của các nước lớn đã thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào và Campuchia là: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; tạo cơ sở pháp lý để nhân dân Việt Nam tiếp tục đấu tranh trong 21 năm tiếp theo để giành độc lập và thống nhất hoàn toàn. Miền Bắc Việt Nam được giải phóng, và tiếp tục được xây dựng vững mạnh, thành căn cứ địa chung của cách mạng cả nước, thành hậu phương chiến lược của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược sau này. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9-1960) nhận định: "Việc lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc Việt Nam, và đặt cơ sở pháp lý cho việc thống nhất nước Việt Nam là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, hòa bình và dân chủ trên thế giới. Nó phản ánh tình hình lực lượng so sánh ở Đông Dương và trên thế giới lúc bấy giờ. Thắng lợi to lớn đó không những tạo ra khả năng để thực hiện hòa bình thống nhất nước ta trên cơ sở độc lập và dân chủ, mà còn tạo những điều kiện thuận lợi cho cách mạng ở miền Bắc tiến lên một giai đoạn mới"[16].

[1]. Trường Chinh: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, t.1, tr. 230. [2]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr. 480. [3]. Hồ Chí Minh, biên niên những sự kiện và tư liệu về quân sự, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 160. [4]. Archimedes L. A. Patti: Tại sao Việt Nam, Nxb. Đà Nẵng, 2001, tr.826. [5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr. 168. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr. 555-556; t.15, tr.181, 185-186. [7]. US. Vietnam relation, Book 9. [8]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.14, tr. 555. [9]. Archimedes L. A. Patti: Tại sao Việt Nam, Sđd, tr. 770. [10]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr. 175. [11]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr. 404. [12]. Archimedes L. A. Patti: Tại sao Việt Nam, Sđd, tr. 838. [13]. Phạm Văn Đồng: Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 76. [14]. Philippe Devillers - Jean Lacouture : La fin d' une guerre, Seul, Paris, 1960, tr. 228. [15]. Bộ Ngoại giao: Những văn bản chính của Hội nghị Giơnevơ, Hà Nội, 1955, tr. 239. [16]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Sđd, t.21, tr. 502-503.

Vũ Quang Hiển Nguồn: Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2001-2006), Nxb Chính trị quốc gia, H., 2006, Tr. 658-672. Theo Website Khoa Lịch sử, khoalichsu.ussh.vnu.edu.vn, 13-09-2012.

Thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước là kết quả hợp thành của một loạt nhân tố chủ quan và khách quan, trong nước và trên thế giới, dân tộc và thời đại. Hơn 30 năm sau ngày kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhìn lại, càng thấy rõ hơn, đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nguyên nhân làm nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc mà một trong số đó là sự giúp đỡ đầy nghĩa tình của bạn bè khắp năm châu, của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là sự giúp đỡ to lớn, hiệu quả của Liên Xô và Trung Quốc. Bài viết này, trình bày một cách khái quát về viện trợ mà Trung Quốc dành cho Việt Nam trong những năm đầu Việt Nam chống Mỹ (1954-1964).

Công hòa Nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) là quốc gia sớm nhất và đầu tiên có quan hệ, giúp đỡ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (ngày 18-1-1950, nước CHND Trung Hoa công nhận Việt Nam). Và ngược lại, Việt Nam Dân chủ cộng hòa cũng là một trong những nước đầu tiên công nhận và đặt quan hệ chính thức với nước CHND Trung Hoa (ngày 15-1-1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra tuyên bố công nhận nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa). Ngay sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời, thay mặt Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam, ngày 5-12-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện tới đồng chí Mao Trạch Đông, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa. Điện văn có đoạn nêu rõ: "Tôi rất vui mừng được tin Chính phủ nước CHND Trung Hoa được thành lập. Thay mặt nhân dân và Chính phủ Việt Nam, tôi kính mừng ngài, Chính phủ và nhân dân Trung Hoa. Hai dân tộc Việt-Nam có mối quan hệ trải mấy nghìn năm lịch sử. Từ đây mối quan hệ ấy sẽ càng mật thiết để phát triển tư do, hạnh phúc của hai dân tộc ta, và để bảo vệ dân chủ thế giới và hòa bình lâu dài". Tiếp ngay sau đó, ngày 2-1-1950, Hồ Chủ tịch chính thức thăm nước CHND Trung Hoa và đã hội đàm với các nhà lãnh đạo Đảng, Chính phủ Trung Quốc.

Những hoạt động tích cực trên của Hồ Chủ tịch đã góp phần vào việc mở ra một trang sử mới trong quan hệ, giúp đỡ lẫn nhau giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước Việt-Trung. Hai nước đã chính thức công nhận nhau, tỏ rõ sẵn sàng lập quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. Và cũng thông qua chuyến thăm này của Hồ Chủ tịch, Đảng, Chính phủ Trung Quốc chính thức nhận sẽ giúp đỡ cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Việt Nam theo lời đề nghị của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam.

Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược 1945-1954, nhân dân ta đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ quý báu và hiệu quả của Đảng, Nhà nước, nhân dân Trung Quốc, đặc biệt là từ sau chiến thắng Biên Giới Thu Đông (1950). Chiến thắng này đưa sự nghiệp khắng chiến chống Pháp của nhân dân ta vượt qua giai đoạn khó khăn, bị kẻ thù bao vây 4 mặt. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã mở thông với quốc tế trên nhiều hướng, hậu phương ta trực tiếp nối liền với Trung Quốc, qua đó nối với Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ tính từ khi biên giới phía Bắc được khai thông đến hết năm 1950, Việt Nam đã tiếp nhận từ Trung Quốc 1.020 tấn vũ khí đạn dược, 180 tấn quân trang quân dụng, 2.630 tấn gạo, 20 tấn thuốc và dụng cụ quân y, 800 tấn hàng quân giới, 30 xe ô tô, 120 tấn xăng dầu và phụ tùng ô tô. Ngoài ra, Trung Quốc còn cử một đoàn gồm 79 đồng chí cố vấn quân sự do Vi Quốc Thanh làm Trưởng đoàn cùng La Quý Ba, Trần Canh sang giúp Việt Nam; nhận huấn luyện, trang bị cho Đại đoàn 308 (thiếu), Trung đoàn 174, Trung đoàn pháo binh hạng nặng 45, Trung đoàn pháo cao xạ 367, hai tiểu đoàn công binh, trường sĩ quan lục quân… của Việt Nam. Tuy rằng, sự ủng hộ giúp đỡ ban đầu chưa nhiều, nhưng đã góp phần quan trọng đưa sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của dân tộc ta đến ngày thắng lợi hoàn toàn.

Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, kế thừa quan hệ truyền thống, chúng ta tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở với tất cả các nước nhằm không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế, củng cố, nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tranh thủ sự giúp đỡ về vốn, khoa học kỹ thuật cho sự nghiệp xây dựng miền Bắc, tăng cường tiềm lực quốc phòng, dự trữ chiến lược cho sự nghiệp kháng chiến lâu dài.

Quán triệt đường lối đối ngoại đó, Đảng và Chính phủ ta liên tiếp cử nhiều đoàn đại biểu, đại diện đi thăm hỏi, trao đổi, làm việc với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa trong đó có Trung Quốc. Đầu tiên phải kể tới chuyến thăm Trung Quốc và Liên Xô của Hồ Chủ tịch vào tháng 7 năm 1955-một chuyến đi có ý nghĩa đặt nền móng cho việc tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, thiết lập quan hệ đồng minh chiến lược với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, trước hết là với hai nước Liên Xô và Trung Quốc khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Tiếp đó, cuối năm 1955, đoàn đại biểu quân sự do Đại tướng Võ Nguyên Giáp dẫn đầu sang thăm và làm việc với Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu quân Giải phóng Trung Quốc. Trong chuyến thăm này, theo Báo cáo tình hình viện trợ của Tổng cục Hậu cần cho biết: "Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã giúp Việt Nam đặt Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng và đã giúp Việt Nam trang bị kỹ thuật cũng như huấn luyện đào tạo cán bộ để thực hiện Kế hoạch này". Gần 2 năm sau, tháng 6-1957, Hồ Chủ tịch dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng, Chính phủ, Quốc hội lên đường thăm Trung Quốc, Liên Xô. Sau đó, lần lượt là các đoàn đại biểu do các đồng chí Phạm Văn Đồng, Văn Tiến Dũng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan… dẫn đầu sang thăm và làm việc trao đổi, học hỏi kinh nghiệm.

Qua các cuộc tiếp xúc trao đổi, chúng ta đều bày tỏ mong muốn tăng cường tình đoàn kết hữu nghị với bạn, thực hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa hai nước trong các hoạt động quốc tế và đấu tranh ngoại giao; mong muốn Trung Quốc tiếp tục giúp đỡ Việt Nam về vốn, vật chất, kinh nghiệm cho sự nghiệpx ây dựng miền Bắc và củng cố nâng cao tiềm lực quốc phòng, thực hiện đấu tranh hòa bình giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Về cơ bản, các nhà lãnh đạo Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc hoàn toàn nhất trí và có những ý kiến đóng góp rất thiết thực vào những đề xuất về đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam do Đảng Lao động Việt Nam đề ra; hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ cứu nước mà nhân dân Việt Nam đang tiến hành. Chính vì vậy, mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc giúp đỡ khá lớn cả về viện trợ quân sự lẫn kinh tế. Nguồn vốn này cùng với nguồn vốn do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác viện trợ đã góp phần quan trọng bảo đảm cho miền Bắc Việt Nam hoàn thành thắng lợi các kế hoạch khôi phục, phát triển kinh tế và quốc phòng an ninh ngay từ những năm đầu sau giải phóng.

Cuối năm 1954, đầu năm 1955, ngay khi miền Bắc vừa được giải phóng, nhân dân gặp khó khăn về mọi mặt (theo thống kê chưa đầy đủ đến tháng 10 năm 1954, miền Bắc đã có gần nửa triệu người bị đói) thì Tổng hội cứu tế Trung Quốc đã kịp thời gửi 10.000 tấn gạo, 5 triệu thước vải cho nhân dân Việt Nam. Tuy số lượng không lớn, nhưng sự giúp đỡ kịp thời ấy có ý nghĩa rất lớn. Đó là nguồn động viên và trực tiếp góp phần giúp nhân dân miền Bắc Việt Nam vượt qua những ngày đầu khó khăn sau giải phóng. Đánh giá cao về sự kiện này, Đảng và Nhà nước ta ghi nhận "Trong lúc chúng ta đang gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết nạn đói và phục hồi sản xuất, việc giúp đỡ của Tổng hội cứu tế Trung Quốc đối với nhân dân ta có một ý nghĩa rất quan trọng. Nó chứng tỏ sự ủng hộ không vụ lợi và tinh thần quốc tế cao cả của nhân dân Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam".

Những năm tiếp sau, Trung Quốc tổ chức nhiều đoàn chuyên gia sang giúp Việt Nam trong công cuộc khôi phục phát triển kinh tế, giáo dục, văn hóa xã hội… Nhận đào tạo ngắn hạn và dài hạn hàng nghìn học viên Việt Nam tại các cơ sở đào tạo của Trung Quốc. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực quân sự, đã có các lớp thực tập sinh sau:

Về vũ khí mới: Việt Nam đã cử 74 đồng chí do đồng chí Tạo làm trưởng đoàn sang học từ tháng 12-1956 đến tháng 6-1958;

Về sản xuất vũ khí: phục vụ trực tiếp cho nhà máy Z1 và Z2 là 80 người do đồng chí Phan Văn Dán và Đặng Hữu Thập làm trưởng đoàn sang học từ tháng 2-1960 đến tháng 6-1961;

Về sửa chữa đạn dược, hóa nghiệm, thuốc nổ: 12 đồng chí sáng học từ tháng 8-1956 đến tháng 4-1958.

Về mạ huân, huy chương: 4 đồng chí sang học từ tháng 6-1958 đến tháng 9-1959.

Quản lý xe máy có 3 người; Quân nhu gồm 6 người sang học từ tháng 8-1956; Xăng dầu có 6 người đi năm 1960.

Có thể nói, với đường lối đối ngoại đúng đắn, ngay trong 10 năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1964), Việt Nam đã nhận được sự dủng hộ giúp đỡ tận tình, quý báu của Trung Quốc. Trung Quốc đã bảo đảm việc huấn luyện, đào tạo đội ngũ cán bộ ban đầu, xây dựng lực lượng, cung cấp vật tư trang thiết bị và hậu cần, bảo đảm vận chuyển; dành cho Việt Nam các khoản viện trợ không hoàn lại, cho vay không tính lãi.

Về viện trợ kinh tế: Từ năm 1954 đến năm 1964, Chính phủ Trung Quốc giúp vốn khôi phục hệ thống đường sắt, bến tàu, tu sửa cầu đường, xây dựng nhà máy dệt, nhà máy thuộc da, nhà máy giấy, một số nông trường… với trị giá 1.224 nghìn triệu đồng trong 5 năm (1955-1960).

Ngày 31-1-1961, tại Bắc Kinh, thay mặt Chính phủ Việt Nam, đồng chí Nguyễn Duy Trịnh, Phó Thủ tướng, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước đã cùng đồng chí Bạc Nhất Ba, Phó Thủ tướng, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước nước CHND Trung Hoa ký Hiệp định Trung Quốc cho Việt Nam vay dài hạn 141.750.000 Rúp chuyển đổi trong 7 năm (1961-1967) để thanh toán các khoản viện trợ kỹ thuật trong xây dựng và mở rộng 28 xí nghiệp gồm luyện kim, công nghiệp nhẹ, đường sắt. Ngoài ra, Trung Quốc còn giúp Việt Nam khảo sát, xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện cùng toàn bộ vốn cây, con giống, tài liệu khoa học kỹ thuật phục vụ cho việc xây dựng 8 nông trường chăn nuôi, trồng trọt đầu tiên của quân đội… Có thể nói nhiều cơ sở công nghiệp đầu tiên trên miền Bắc đều đã được xây dựng từ nguồn vốn này.

Về viện trợ quân sự: Trong những năm này, Việt Nam đã nhận được một khối lượng vũ khí, đạn dược, trang thiết bị kỹ thuật và hậu cần tương đối lớn. Tổng trọng lượng trang thiết bị quân sự và vật tư hậu cần mà Trung Quốc đã viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam lên tới 58.953 tấn, trị giá 382 triệu NDT. Cụ thể các năm như sau: năm 1954 (tính từ ngày 1-6-1954 trở đi) 16.734 tấn; năm 1955 là 6.546 tấn, trị giá 23.316.000 NDT; năm 1956 là 1.380 tấn, trị giá 14.423.000 NDT; năm 1957 là 4.019 tấn, trị giá 22.682.000 NDT; năm 1958 là 4.410 tấn, trị giá 39.336.000 NDT; năm 1959 là 1.672 tấn, trị giá 25.608.000 NDT; năm 1960 là 1.562 tấn, trị giá 18.898.000 NDT; năm 1961 là 6.234 tấn, trị giá 30.276.000 NDT; năm 1962 là 2.717 tấn, trị giá 44.332.000 NDT; năm 1963 là 3.538 tấn, trị giá 40.150.000 NDT; năm 1964 là 10.141 tấn, trị giá 122.983.000 NDT.

Cụ thể bao gồm một số loại chính đươi đây:

Nguồn vũ khí trang thiết bị chiến tranh này đã được khẩn trương bổ sung, trang bị cho các đơn vị trong lực lượng vũ trang, góp phần phục vụ trực tiếp công tác huấn luyện và nâng cao sức mạnh sẵn sàng chiến đấu của quân đội Việt Nam. Đánh giá về kết quả viện trợ đó, Báo cáo về quan hệ giữa nước ta và các nước anh em của Việt Nam ghi nhận rằng: “Cùng với sự giúp đỡ của Liên Xô, sự gúp đỡ của Trung Quốc đã có tác dụng rất quan trọng đối với việc cải tiến và tăng cường trang bị của quân đội ta, làm cho quân đội ta tiến thêm một bước trên con đường hiện đại hóa”(11).

Tuy nhiên, cũng qua các tài liệu đã được tổng hợp và thống kê trên đây đã chỉ ra, có thể do nhiều lý do mà nguồn viện trợ quân sự của Trung Quốc dành cho Việt Nam qua từng năm rất khác nhau cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Cụ thể từ cuối năm 1959 đến những năm đầu 1960, Việt Nam thực hiện chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng ở miền Nam thì cũng là hai năm Việt Nam nhận được khối lượng và giá trị các mặt hàng viện trợ ít nhất so với các năm trước và sau đó. Vũ khí, loại phương tiện rất cần thiết cho chiến trường và trong chiến đấu thì Việt Nam nhận được rất nhỏ giọt, theo chiều hướng thường năm trước cao hơn năm sau. Chẳng hạn năm 1959, Việt Nam nhận được 429 tấn vũ khí, thì đến năm 1960 chỉ còn 229 tấn. Năm 1961 tụt xuống còn 188 tấn. Năm 1962 là 162 tấn. Sang năm 1963 chỉ còn 79 tấn, nhưng tới năm 1964 lại tăng vọt lên 753 tấn(12).

Không chỉ viện trợ vũ khí, vật tư hậu cần mà Trung Quốc còn giúp ta từ thiết kế, cung cấp nguyên vật liệu, thi công xây dựng, cung cấp máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất, tài liệu sản xuất cho hai xưởng sửa chữa pháo và khí tài quang học (Z1) tại huyện Trấn Yếu, tỉnh Yên Bái trị giá 700.116 rúp và xưởng sửa chữa đạn (Z2) tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang trị giá 418.000 rúp. “Đây là hai cơ sở sản xuất vũ khí đầu tiên của ta sản xuất theo dây chuyền bằng những phương tiện hiện đại” ; sân bay Nội Bài trị giá 1.518.239 rúp (13). Các công trình công nghiệp quân sự này đã nhanh chóng đưa vào sản xuất và phát huy tác dụng. Ngoài ra, Trung Quốc còn nhận đào tạo hàng nghìn học viên quân sự Việt Nam tại các trường quân sự của Trung Quốc như đã kể trên; giúp thành lập huấn luyện và trang bị trung đoàn không quân Việt Nam đầu tiên ở Mông Tự, lập các căn cứ dự phòng và chuyển tiếp vật chất ở đảo Hải Nam. Tại các lĩnh vực, ngành chủ chốt trong quân đội đều có mặt các chuyên gia Trung Quốc hướng dẫn, giúp đỡ. Tuy số lượng không nhiều, tính đến ngày 26 tháng 4 năm 1961, tổng số chuyên gia Trung Quốc đã từng công tác hoặc hiện đang công tại Việt Nam là 566 người (14) nhưng cùng với sự giúp đỡ về vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh đã trực tiếp góp phần vào việc tăng cường tiềm lực quốc phòng và xây dựng một số ngành, lĩnh vực chủ chốt của Quân đội nhân dân Việt Nam trong những năm tháng buổi đầu tiên lên chính quy hiện đại. Đánh giá về sự giúp đỡ của chuyên gia Trung Quốc từ đầu năm 1956 đến đầu năm 1957, Báo cáo của Bộ tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nêu rõ: “Qua một năm tận tụy công tác, các đồng chí đã giúp đỡ hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của Tổng Quân ủy đề ra trong việc tổ chức, huấn luyện các trường, các lớp, huấn luyện bộ đội. Kết quả trên đã trực tiếp góp phần vào việc xây dựng quân đội chính quy, đào tạo bồi dưỡng cán bộ chỉ huy, cơ quan nghiệp vụ, nâng cao trình độ, nề nếp công tác, thiết thực giúp Quân đội ta kinh nghiệm xây dựng quân đội thời bình, sẵn sàng chiến đấu và biết triển khai các kế hoạch phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới" (15).

Bên cạnh sự giúp đỡ về vật chất, Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc còn dành cho Việt Nam sự ủng hộ to lớn về chính trị. Trung Quốc là một trong những quốc gia đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của đế quốc Mỹ ở Việt Nam. Với thái độ kiên quyết ủng hộ Việt Nam kháng chiến, các nhà lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc đã tổ chức nhiều hoạt động phong phú biểu hiện tình đoàn kết hữu nghị với nhân dân Việt Nam. Năm 1958, Chủ tịch Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ chính thức thăm Việt Nam. Ngày 6-8-1964, sau khi xảy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ, mở đầu việc Mỹ tuyên chiến chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ nước CHND Trung Hoa ra tuyên bố lên án hành động xâm lược của Mỹ và khẳng định tình đoàn kết, trách nhiệm đối với Việt Nam: “Đế quốc Mỹ tiến công nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tức là tiến công nước CHDC Trung Hoa. Do vậy, Trung Quốc phải có trách nhiệm cùng với Việt Nam đánh Mỹ”(16). Đặc biệt, ngày 10-2-1965, hơn một triệu người dân thủ đô Bắc Kinh cùng các nhà lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai… mít tinh tại Quảng trường Thiên An Môn để phản đối tội ác chiến tranh và quyết tâm ủng hộ Việt Nam. Tiếp đến, ngày 22-7-1966, cũng tại Thiên An Môn, Trung Quốc tổ chức một cuộc mít tinh để ủng hộ Việt Nam. Tại đây, Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ đọc tuyên bố: “Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam tức là xâm lược Trung Quốc. 700 triệu nhân dân Trung Quốc là hậu phương vững chắc của nhân dân Việt Nam…”.

Những hoạt động trên đã góp phần to lớn trong việc động viên tinh thần kháng chiến của toàn thể nhân dân ta trước kẻ thù mạnh, làm cho Việt Nam thêm vững tin vào thắng lợi cuối cùng trên con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc.

Nhờ sự giúp đỡ to lớn của Trung Quốc, Liên Xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam, chúng ta không chỉ nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, tiềm lực quốc phòng được tăng cường cả về cơ cấu, chất lượng và số lượng mà vị thế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Việt Nam có điều kiện mở rộng sự giao lưu hợp tác kinh tế và văn hóa với các nước. Miền Bắc tiến nhanh và thu được nhiều thành quả to lớn, toàn diện trong thực hiện các Kế hoạch 3 năm phát triển kinh tế (1958-1960), 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa… đều có bước phát triển. Miền Nam từng bước chuyển mình trong sự nghiệp đấu tranh lâu dài. Đặc biệt, dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương 15 (1-1959) đã tạo ra bước ngoặt đầu tiên đối với cách mạng miền Nam, chuyển từ phương thức đấu tranh chính trị, thế giữ gìn lực lượng sang đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang, khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền cơ sở. Trên cơ sở những kết quả đạt được trong công cuộc xây dựng miền Bắc và từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng miền Nam, Trung ương Đảng ta quyết định mở đường vận tải chiến lược chi viện miền Nam (1959)-một trong những vấn đề sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của cách mạng miền Nam; thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (12-1060). Sau khi ra đời, Mặt trận đã nhanh chóng trở thành ngọn cơ tập hợp lực lượng yêu nước ở miền Nam và trở thành tổ chức chính thức đại diện cho toàn diện cho toàn thể nhân dân miền Nam trước thế giới. Tháng 9 năm 1960, Đảng tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III-Đại hội ý Đảng lòng dân-Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà.

Có thể nhận thấy trong giai đoạn đầu Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, trên cơ sở tình cảm anh em và tinh thần vô sản quốc tế trong sáng, Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ to lớn về cả vật chất lẫn tinh thần của các nước XHCN đặc biệt là sự giúp đỡ của Trung Quốc và Liên Xô. Chẳng những Đảng ta đã thành công trong quyết định những vấn đề trọng đại về đường lối cách mạng của Việt Nam mà còn đề ra được chủ trương và bước đi thích hợp trong quan hệ đối ngoại, vì vậy, chúng ta đã tranh thù được sự giúp đỡ tích cực, to lớn và hiệu quả của Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc cho sự nghiệp xây dựng miền Bắc, tăng cường tiềm lực quốc phòng. Sự giúp đỡ đó, có thể nói là rất quý, đặc biệt trong hoàn cảnh Chính phủ và nhân dân Trung Quốc cũng còn nhiều khó khăn trong quá trình công nghiệp hóa, xã hội hóa.

Ngày nay, đất nước ta được độc lập, quê hương sạch bóng quân thù, non sông thu về một dải, nhân dân ta được sống trong tự do, hạnh phúc. Nhìn lại lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của mình, các thế hệ chúng ta thầm cảm ơn các thế hệ cha anh đã anh dũng ngã xuống hy sinh cho nền độc lập, thầm cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình và quý báu của loài người tiến bộ trong đó có Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc.

Cha của bà là quân nhân được hưởng chế độ theo Quyết định số 142/2008 ngày 27-10-2008 của Thủ tướng về thực hiện chế độ đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong quân đội, đã phục viên, xuất ngũ về địa phương; được ngân sách nhà nước đóng BHYT. Vậy, cha của bà cần liên hệ với Phòng LĐTB-XH quận/huyện nơi cư trú để được hướng dẫn thủ tục cấp thẻ BHYT. Theo quy định tại khoản 2, Điều 5 Nghị định số 158/2005 ngày 27-12-2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch, quy định giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về họ, tên, chữ đệm... phải phù hợp với giấy khai sinh của người đó. Trường hợp cấp lại giấy tờ nhưng ghi tên không thống nhất với giấy khai sinh thì liên hệ với cơ quan có thẩm quyền đã cấp lại giấy tờ đó để giải quyết.