QĐND - Công cuộc giảm nghèo của Việt Nam giai đoạn 2011-2015 đã đạt được mục tiêu đề ra, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo hiện còn 9-10%, trong đó dưới 5% hộ nghèo. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cũng bộc lộ một số hạn chế về chính sách cho người nghèo. Được biết, trong thời gian tới, Nhà nước sẽ đưa giải pháp mới tiếp cận nghèo theo hướng đa chiều. Để hiểu rõ hơn nội dung này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với ông Ngô Trường Thi, Vụ trưởng, Chánh văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội).
QĐND - Công cuộc giảm nghèo của Việt Nam giai đoạn 2011-2015 đã đạt được mục tiêu đề ra, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo hiện còn 9-10%, trong đó dưới 5% hộ nghèo. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cũng bộc lộ một số hạn chế về chính sách cho người nghèo. Được biết, trong thời gian tới, Nhà nước sẽ đưa giải pháp mới tiếp cận nghèo theo hướng đa chiều. Để hiểu rõ hơn nội dung này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với ông Ngô Trường Thi, Vụ trưởng, Chánh văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội).
Cập nhật ngày: 01/10/2024 05:31:13
ĐTO - Thời gian qua, huyện Hồng Ngự tập trung các giải pháp phát huy hiệu quả Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện. Thông qua công tác hỗ trợ vốn vay, đào tạo nghề, giải quyết việc làm và triển khai nhiều mô hình giảm nghèo gắn với thực hiện các chính sách an sinh xã hội... góp phần giúp nhiều hộ nghèo, cận nghèo có điều kiện phát triển kinh tế, từng bước vươn lên ổn định đời sống.
Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Thường Lạc (huyện Hồng Ngự) trao tặng thẻ bảo hiểm y tế cho hội viên có hoàn cảnh khó khăn tại địa phương
Để thực hiện đạt mục tiêu giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo và không phát sinh nghèo mới, UBND huyện chỉ đạo các phòng, ban, ngành huyện, UBND xã, thị trấn lồng ghép công tác giảm nghèo với thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, Chương trình đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng; kế hoạch đào tạo nghề cho người lao động nông thôn và giải quyết việc làm sau đào tạo.
Trên cơ sở kết quả điều ra hộ nghèo đa chiều đầu giai đoạn 2022 - 2025, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp, hướng dẫn các xã, thị trấn lập danh sách cụ thể theo các chiều thiếu hụt và đề ra giải pháp hỗ trợ, giúp đỡ họ tiếp cận các nguồn lực để vươn lên thoát nghèo theo từng năm. Cùng với đó, tập trung hỗ trợ người nghèo tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản như: việc làm, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch. Đồng thời thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, hướng dẫn hộ nghèo cách làm ăn, tạo môi trường thuận lợi để hộ nghèo, cận nghèo phát triển kinh tế.
UBND huyện chỉ đạo UBND các xã, thị trấn khảo sát những hộ nghèo, cận nghèo có ý chí vươn lên thoát nghèo và hộ mới thoát nghèo chí thú làm ăn, lập hồ sơ hỗ trợ nguồn vốn từ Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững. Đồng thời chỉ đạo Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp các ngành huyện, UBND cấp xã thẩm định và cho hộ gia đình cam kết sử dụng nguồn vốn vay đúng mục đích. Bên cạnh nguồn vốn được tỉnh hỗ trợ, huyện Hồng Ngự còn đẩy mạnh công tác hỗ trợ vốn cho vay giải quyết việc làm cho hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo từ nguồn ngân sách địa phương.
Hàng năm, UBND các xã, thị trấn rà soát danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo đang quản lý; phối hợp Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện thẩm định hồ sơ các đối tượng đủ điều kiện nhằm kịp thời hỗ trợ vốn vay. Từ năm 2021 đến nay, toàn huyện có 3.741 hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo vay hơn 206 tỷ đồng để sản xuất, chăn nuôi... góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống.
Cùng với cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn huyện tích cực triển khai nhiều hoạt động đảm bảo an sinh xã hội, hỗ trợ người nghèo của địa phương. Phát huy vai trò của các cấp Hội trong việc hỗ trợ hội viên, phụ nữ nghèo phát triển kinh tế, Hội Liên hiệp Phụ nữ (LHPN) huyện Hồng Ngự và các cơ sở Hội hỗ trợ cho 708 hội viên, phụ nữ tiếp cận nguồn vốn vay hơn 5,5 tỷ đồng từ Quỹ hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế của Hội LHPN tỉnh. Bên cạnh đó, các cấp Hội trên địa bàn huyện duy trì hiệu quả 39 Tổ phụ nữ góp vốn xoay vòng giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, với 644 thành viên. Từ đầu năm 2024 đến nay, các tổ đã huy động được gần 934 triệu đồng và giúp đỡ vốn không lãi suất cho 442 thành viên.
Theo đồng chí Nguyễn Thị Cẩm Vân - Chủ tịch Hội LHPN huyện Hồng Ngự, ngoài việc hỗ trợ hội viên, phụ nữ nghèo được vay, mượn vốn, các cấp Hội thường xuyên chia sẻ những kinh nghiệm trong lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt và kinh doanh; tổ chức dạy nghề, truyền nghề, giới thiệu việc làm với thu nhập ổn định. Đến tháng 9/2024, Hội LHPN huyện phối hợp Trung tâm giáo dục nghề nghiệp huyện mở 8 lớp đào tạo nghề phi nông nghiệp cho 197 hội viên, phụ nữ thuộc hộ nghèo, cận nghèo; giới thiệu việc làm với thu nhập bình quân từ 3,5 triệu - 5 triệu đồng/tháng cho trên 150 lượt hội viên, phụ nữ. Đồng thời, các cấp Hội trong huyện còn vận động kinh phí xã hội hóa gần 3 tỷ đồng trao tặng hơn 6.400 suất quà cho hội viên, phụ nữ nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo ở địa phương.
Theo UBND huyện Hồng Ngự, nhờ sự chung tay của cả hệ thống chính trị, triển khai kịp thời những chính sách hỗ trợ từ Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo của huyện qua từng năm. Năm 2021, toàn huyện có 1.624 hộ nghèo, chiếm 4,43%. Ước đến cuối năm 2024, hộ nghèo giảm còn 721 hộ, chiếm 1,98% (bình quân hàng năm giảm từ 0,76 - 1,29%).
Đồng chí Huỳnh Văn Tài - Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Phó Chủ tịch UBND huyện Hồng Ngự cho biết: “Với quyết tâm thực hiện công tác giảm nghèo bền vững, thời gian tới, huyện Hồng Ngự đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động hộ nghèo, cận nghèo nâng cao nhận thức tự lực vươn lên thoát nghèo; tích cực tham gia học nghề, tìm việc làm và nâng cao thu nhập. Bên cạnh đó, UBND huyện, các đơn vị trực thuộc tiếp tục thực hiện tốt chính sách hỗ trợ vốn vay, phát huy hiệu quả các mô hình, dự án giảm nghèo. Huy động các nguồn lực triển khai các hoạt động an sinh xã hội, nhất là chăm lo giúp hộ nghèo, cận nghèo ổn định cuộc sống, vươn lên thoát nghèo”.
Dưới sự chủ trì của Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh, Ủy ban vừa tổ chức Phiên họp toàn thể lần thứ 18. Một trong những nội dung khiến các Ủy viên Ủy ban, đại biểu Quốc hội tập trung thảo luận là việc thực hiện Nghị quyết số 76/2014 /QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020.
Đề cập kết quả 06 năm thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, Thứ trưởng Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh nêu rõ: Quốc hội, Chính phủ đã rất quan tâm, ưu tiên bố trí nguồn lực đầu tư trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững. Kinh phí thực hiện các chính sách, chương trình giảm nghèo, an sinh xã hội được Chính phủ giao ổn định để các địa phương chủ động thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ người nghèo nâng cao thu nhập, tiếp cận tốt hơn các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh và thông tin.
Thứ trưởng Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ giảm nghèo thông qua các chính sách giảm nghèo, an sinh xã hội và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020. Tỷ lệ hộ nghèo còn 3,75% năm 2019 và ước năm 2020 còn khoảng 2,75%, trung bình mỗi năm tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,43%; tỷ lệ hộ nghèo ở 64 huyện nghèo còn 27,85% năm 2019, ước cuối năm 2020 còn khoảng 24%, trung bình mỗi năm giảm 5,28%. Các mục tiêu, chỉ tiêu về giảm nghèo đều đạt và vượt so với Nghị quyết đề ra. Các Bộ, ngành, địa phương tích cực, chủ động thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của địa bàn nghèo, nhất là khu vực nông thôn miền núi, vùng đồng bào dân tộc đã có sự thay đổi rõ rệt; thu nhập, đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo được cải thiện, từng bước tiệm cận chuẩn mức sống tối thiểu. Kết quả giảm nghèo và cách tiếp cận giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta thời gian qua tiếp tục được các đối tác phát triển, cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Thứ trưởng Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh cho biết, công tác giảm nghèo trong thời gian qua vẫn còn tồn tại những hạn chế. Đó là Chuẩn nghèo thu nhập chỉ bằng 70% chuẩn mức sống tối thiểu tại thời điểm năm 2015, hiện nay chỉ còn bằng khoảng 45% chuẩn mức sống tối thiểu, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm bằng chuẩn mức sống tối thiểu theo Nghị quyết 76 đặt ra.
Việc rà soát, tích hợp văn bản chính sách về giảm nghèo cũng như việc chuyển đổi phương thức hỗ trợ người nghèo từ hỗ trợ cho không sang hỗ trợ có điều kiện, có thời hạn triển khai chưa hiệu quả; các chính sách giảm nghèo đã được tích hợp bước đầu nhưng vẫn còn dàn trải, thiếu tính hệ thống. Tình trạng phát sinh nghèo còn cao, nhất là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc, vùng thường xuyên bị thiên tai, lũ lụt. Tỷ lệ hộ nghèo giảm không đồng đều trong các vùng của cả nước; thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, hộ nghèo dân tộc thiểu số tăng thấp. Tỷ lệ xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135 thoát khỏi tình trạng khó khăn chưa đạt mục tiêu đề ra 20-30%. Tại một số huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc, nhiều nơi tỷ lệ nghèo vẫn còn trên 50%; tỷ trọng hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm trên 58,53% (cuối năm 2019).
Chênh lệch giàu nghèo, điều kiện tiếp cận các dịch vụ cơ bản, tiếp cận thị trường, việc làm giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Nguồn lực đầu tư cho người nghèo và các địa bàn nghèo, vùng đồng bào dân tộc và miền núi tuy đã được ưu tiên nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Còn nhiều bất cập trong việc lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, dự án khác về giảm nghèo do mục tiêu, cơ chế quản lý, thanh toán khác nhau. Tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số học trung học phổ thông còn thấp; nhiều địa phương không bố trí được việc làm cho người học cử tuyển sau khi tốt nghiệp. Công tác đào tạo cử tuyển chưa gắn với sử dụng nguồn lao động. Việc giải quyết đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, tiến độ giao rừng, cho thuê rừng gắn liền với giao đất lâm nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp còn chậm. Công tác tuyên truyền nhằm khơi dậy tinh thần ý chí tự lực, tự cường, vươn lên thoát nghèo làm giàu của người nghèo chưa tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong người dân và cộng đồng.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành tiêu chí hộ nghèo, hộ cận nghèo; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành quy trình, bộ công cụ rà soát, xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo. Tuy nhiên, thời gian vừa qua, một số chính quyền cấp xã chưa thực hiện đúng quy trình, chưa áp dụng đầy đủ bộ công cụ rà soát, chưa niêm yết công khai và tổ chức họp, lấy ý kiến nhân dân về kết quả rà soát tại thôn, ấp. Do vậy, tình trạng một số đối tượng không đủ điều kiện được đưa vào danh sách hộ cận nghèo để trục lợi chính sách vẫn còn xảy ra tại một số địa phương.
Đề cập những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm 2020, Thứ trưởng Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội Lê Văn Thanh nêu rõ: Năm 2020, đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, đã lan rộng và bùng phát tại nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Ở trong nước, dịch Covid-19 đã và đang tác động đến nhiều mặt trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội; ảnh hưởng nặng nề đến đời sống của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và người dân; nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hợp tác xã phải tạm dừng hoạt động, thu hẹp quy mô sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng làm gia tăng người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người dân thất nghiệp, tình trạng thiếu việc làm. Bên cạnh đó, trong 8 tháng đầu năm 2020, thiên tai tiếp tục diễn biến cực đoan, bất thường trên cả nước như xảy ra các đợt dông lốc, mưa đá, lũ lụt diện rộng tại một số tỉnh miền núi phía Bắc; hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng, sạt lở bờ sông, bờ biển, lún sụt diễn biến phức tạp tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Thiên tai đã làm nhiều người chết, mất tích; nhà bị sập đổ, hư hại, tốc mái; lúa và hoa màu bị ảnh hưởng, bị đổ, dập nát.
Dự báo trong giai đoạn cuối năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, một số hộ gia đình rơi vào tình trạng nghèo đói, tái nghèo, thậm chí thiếu đói, thiếu lương thực do mất nguồn thu nhập và mất việc làm, sinh kế. Công tác giảm nghèo gặp rất nhiều khó khăn, thách thức trong việc hỗ trợ sinh kế, tạo việc làm, hỗ trợ sản xuất, chăn nuôi, trồng trọt, bảo đảm người nghèo có thu nhập, ổn định cuộc sống; đặc biệt là việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo 1-1,5%/năm. Đến hết năm 2020, Chính phủ phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo cả nước xuống dưới 3% (năm 2019 là 3,75%); tỷ lệ bình quân hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm xuống dưới 26% (năm 2019 là 27,85%).
Cần quan tâm đến việc vì sao hộ nghèo giảm tốt nhưng hộ cận nghèo lại giảm chậm
Tại Phiên họp, đa số các thành viên Ủy ban Về các Vấn đề xã hội của Quốc hội đánh giá cao công tác thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến đề xuất cần triển khai công tác này một cách hiệu quả, đúng đối tượng, tránh sự trùng lắp, chồng lấn với các chương trình khác.
Đại biểu Lưu Bình Nhưỡng – Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre nêu quan điểm.
Góp ý về thực hiện Nghị quyết số 76/2014 /QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, đại biểu Lưu Bình Nhưỡng- Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre nêu quan điểm: Công tác giảm nghèo trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định, tạo đà cho ổn định xã hội và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các Bộ ngành, địa phương cần quan tâm tới việc thống nhất phân cấp, phối phợp thực hiện các mục tiêu giảm nghèo một cách khách quan. Việc phân bổ nguồn lực phải rõ ràng, đến đúng đối tượng được thụ hướng để tránh có địa phương dồn nguồn lực, có nơi không tìm ra và lãng phí ngân sách của Nhà nước.
Ngoài công tác đảm bảo giảm nghèo, hướng tới xóa nghèo bằng cách cấp tiền, cơ sở vật chất, các địa phương cũng cần chú trọng tới những công việc khác như để người dân có thể tiếp cận với những thủ tục giảm nghèo, thoát nghèo một cách hiệu quả nhất. Mặt khác, cũng cần quan tâm đến việc vì sao hộ nghèo giảm tốt nhưng hộ cận nghèo lại giảm chậm.
Đóng góp vào nguồn lực giảm nghèo, đại biểu Nguyễn Thanh Xuân – Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Cần Thơ cho rằng: Để có thêm kinh phí cho công tác giảm nghèo thì ngoài ngân sách Nhà nước cần huy động thêm sự đóng góp của xã hội, các doanh nghiệp, nhà hảo tâm. Việc xác định tiêu chí hộ nghèo, cận nghèo cần được tính toán kỹ lưỡng, tránh sự chồng chéo giữa hộ nghèo ở miền núi và nông thôn.
Đại biểu Nguyễn Thanh Xuân – Phó Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Cần Thơ đóng góp ý kiến.
Còn đại biểu Nguyễn Anh Trí – Đoàn Đại biểu Quốc hội Thành phố Hà Nội, nêu quan điểm: Các Bộ ngành, địa phương khi thực hiện công tác giảm nghèo thì không nên có sự chồng lấn giữa các mục tiêu quốc gia về giảm nghèo mà cần có sự phối hợp, chắt lọc thật tốt. Chương trình nào đã thực hiện hiệu quả thì tiếp tục thực hiện, chương trình nào chưa tốt thì phải xem xét vì sao để có hướng khắc phục kịp thời để sao cho người dân tích cực tham gia vào công tác giảm nghèo, chứ không chỉ là chỉ trông đợi vào sự hỗ trợ của ngân sách Nhà nước, địa phương.
Đề cập về vấn đề giảm nghèo bền vững, Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung khẳng định: Kết quả thực hiện Nghị quyết 76/2014/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020 trong thời gian qua là tích cực. Chúng ta chưa bằng lòng với những gì đã đạt được nhưng nhiều tổ chức quốc tế đánh giá Việt Nam là gương sáng trong giảm nghèo.
Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung giải trình thêm ý kiến của các Ủy viên Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội.
Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cũng thừa nhận việc phấn đấu giảm nghèo bền vững là rất khó khăn, tình trạng tái nghèo, tái cận nghèo còn cao và thực tế còn tình trạng mâu thuẫn là ở một số huyện, tỉnh nghèo thì tỷ lệ hộ nghèo phát sinh thấp hơn một số tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế cao. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng có nguyên nhân cơ bản là việc tách hộ để được hưởng chính sách nghèo, cận nghèo, rồi giải quyết nhà ở, đất ở và phải thẳng thắn là còn tình trạng trục lợi.
Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung khẳng định: Dịch bệnh Covid-19 vừa qua đã cho chúng ta thấy được nhiều bài học quý khi thực hiện gói hỗ trợ; đồng thời cũng đã phát hiện ra nhiều sai sót như khi phát tiền mới thấy người này, người kia không phải là nghèo. Vì vậy, thời gian tới cần kiểm soát chặt chẽ hơn việc hỗ trợ chính sách cho người nghèo, cận nghèo; để việc hỗ trợ thực sự đến đúng đối tượng, tránh sự lãng phí.
Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh phát biểu kết luận Phiên thảo luận.
Phát biểu kết luận tại Phiên thảo luận, Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh đánh giá cao những ý kiến đóng góp của các ủy viên, đại biểu và cho rằng, đây là những ý kiến sát thực, tâm huyết để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững hiệu quả hơn, đạt được tiêu chuẩn của các tổ chức quốc tế đề ra.
Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh cũng yêu cầu Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và các đơn vị hữu quan tiếp thu các ý kiến đóng góp để chỉnh sửa, bổ sung, cập nhật lại các báo cáo trước khi Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội xem xét trong các phiên họp khác./.
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 thực hiện trên phạm vi cả nước, nhưng trọng tâm là các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo. Chương trình với chính sách hỗ trợ người nghèo xuất khẩu lao động theo hợp đồng được đặt ra là nhiệm vụ quan trọng đối với UBND các tỉnh ven biển và hải đảo, đó là đẩy mạnh hoạt động đưa người lao động sinh sống trên địa bàn các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; hỗ trợ hoạt động đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng nghề cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập và giảm nghèo bền vững, nhất là người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người lao động trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo.
Đối tượng được hưởng chính sách này là người lao động có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài, cư trú trên địa bàn các huyện nghèo (không bao gồm các địa bàn được hưởng cơ chế, chính sách hỗ trợ người lao động đi làm việc ở nước ngoài quy định tại Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030), xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo; ưu tiên người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo.
Người lao động sinh sống trên địa bàn các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: tiền đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề, ngoại ngữ; hỗ trợ tiền ăn, sinh hoạt phí, tiền ở trong thời gian tham gia đào tạo (bao gồm cả thời gian tham gia giáo dục định hướng), trang cấp đồ dùng cá nhân thiết yếu; chi phí khám sức khỏe, hộ chiếu, thị thực và lý lịch tư pháp; giới thiệu, tư vấn cho người lao động và thân nhân người lao động; Một phần chi phí đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo các hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước tiếp nhận, ưu tiên người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người dân tộc thiểu số, người lao động sinh sống trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo.
Xuất khẩu lao động ở những môi trường làm việc tốt không những giúp người lao động tích lũy vốn mà còn cả kinh nghiệm, kiến thức sống để lập thân, lập nghiệp
Thời gian qua, Trung tâm Dịch vụ việc làm thuộc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Tiền Giang đã có nhiều nỗ lực trong công tác giải quyết việc làm, tạo việc làm mới cho lao động, chú trọng thực hiện các giải pháp chính sách hỗ trợ người lao động tìm kiếm việc làm, tuyên truyền phổ biến chính sách hỗ trợ tạo việc làm. Phối hợp với các ngân hàng, chủ yếu là Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh để hỗ trợ người lao động vay vốn ưu đãi từ Quỹ Quốc gia về việc làm và nguồn ngân sách địa phương ủy thác qua ngân hàng.
Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh còn tổ chức định kỳ phiên giao dịch việc làm vào các ngày 10 và 20 hàng tháng nhằm tạo thuận lợi cho người lao động trong việc tìm hiểu và đăng ký tuyển dụng cũng như tạo điều kiện cho các nhà tuyển dụng gặp gỡ người lao động để hai bên có cơ hội tìm hiểu, nắm bắt thông tin; chú trọng liên kết với nhiều tỉnh, thành có nhiều doanh nghiệp, khu công nghiệp để cung ứng lao động, giới thiệu việc làm trong và ngoài tỉnh; đồng thời, tuyển chọn và đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng để giảm sức ép về việc làm. Để tạo điều kiện cho lao động được trang bị các kiến thức về ngoại ngữ, Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh thường xuyên mở nhiều khóa đào tạo tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Hoa cho khoảng 150 lao động mỗi năm. Theo các cơ quan chuyên môn nhận định, thời gian qua, công tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài bên cạnh mục đích kinh tế còn giúp thay đổi tư duy nhận thức và nâng cao kỹ năng, phong cách làm việc của người lao động. Nhờ có sự chủ động phối hợp cùng các doanh nghiệp, lựa chọn các doanh nghiệp uy tín hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, Trung tâm đã giúp người lao động nhận thức, nắm rõ thông tin về thị trường lao động ngoài nước, chủ động lựa chọn những doanh nghiệp, đơn vị đủ tư cách pháp nhân, có uy tín, công việc ổn định, thu nhập tốt, đồng thời, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và phòng tránh thiệt hại cho người lao động. Thời gian qua, Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh đã phối hợp với 12 doanh nghiệp xuất khẩu lao động có uy tín để đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Bác Ái là huyện nghèo của tỉnh Ninh Thuận, cuộc sống của người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp là chính, thu nhập bình quân đầu người chỉ đạt khoảng 17 triệu đồng/người/năm. Trong những năm qua, thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, huyện xác định xuất khẩu lao động là cơ hội để giúp người dân thoát nghèo nhanh và bền vững, huyện đã chủ động triển khai chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn gắn với xuất khẩu lao động. Nhờ đó, đã giúp hàng trăm lao động ở địa phương đi làm việc ở nước ngoài, chuyển đổi nghề để thoát nghèo bền vững. Từ năm 2010 đến nay, huyện đã đưa gần 300 lao động đi làm việc ở nước ngoài, đã gửi về cho gia đình hơn 17 tỷ đồng. Nhiều gia đình có người đi xuất khẩu lao động nhờ nguồn thu nhập ổn định đã vươn lên trong phát triển triển kinh tế gia đình, xây dựng cuộc sống no ấm.
Có thể nói xuất khẩu lao động được xác định là hướng đi đúng trong công tác giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế của huyện. Thời gian qua, tất cả các lao động sau khi hết thời hạn làm việc ở nước ngoài trở về đều có cuộc sống ổn định. Để hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động đi xuất khẩu lao động, thời gian tới huyện tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ, ưu đãi về vốn vay; đồng thời, phối hợp doanh nghiệp có uy tín về địa phương tuyểnlao động, tuyên truyền, tư vấn, đảm bảo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài, góp phần phát triển kinh tế gia đình. Xuất khẩu lao động ở những môi trường làm việc tốt không những giúp người lao động tích lũy vốn mà còn cả kinh nghiệm, kiến thức sống để lập thân, lập nghiệp.
Với những hỗ trợ tích cực và sự vào cuộc của các cấp, các ngành, chương trình xuất khẩu lao động cho người nghèo trên cả nước nói chung và người nghèo vùng ven biển và hải đảo đang dần khởi sắc, dẫu quá trình triển khai không tránh khỏi những khó khăn, hạn chế cần được nghiêm túc nhìn nhận và rút kinh nghiệm để có hướng đi lâu dài và bền vững, trở thành giải pháp chiến lược hỗ trợ sinh kế bền vững cho người nghèo thay đổi cuộc sống, thực hiện thành công mục tiêu Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững đã đề ra, phấn đấu đến năm 2025, tối thiểu 9.500 người lao động thuộc các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được hỗ trợ đào tạo; trong đó, có khoảng 5.700 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (ít nhất 80% hộ gia đình có người đi làm việc ở nước ngoài sẽ thoát nghèo). Hỗ trợ khoảng 1.200 người lao động tham gia các khóa đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo các Hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước tiếp nhận./.